22 tháng 11, 2010

HOÀNG SA 1956, KHI “ĐƯỜNG LUỠI BÒ” CHƯA RA ĐỜI!

(Chú thích ảnh: Lính thủy đánh bộ Trung Quốc tập đổ bộ lên đảo
Chigua Skerry trong dải Trường Sa ngày 24.4.2010)


Việc Cục Đo đạc bản đồ quốc gia Trung Quốc khơi khơi dựng bản đồ trực tuyến Map World thể hiện “đường luỡi bò” bao trùm lên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam, trong một góc nhìn nào đó, chẳng qua là “thuyền lên, nước lên” khi nay đã mạnh vì gạo , bạo vì tiền… Chứ nếu giở lại chuyện cũ năm 1956, khi các tác giả của “đường luỡi bò” còn chưa hoặc mới ra đời, sẽ thấy thế hệ cha chú họ lúc đó còn lén lút mò lên… khu vực Hoàng Sa như những đạo chích.

Cầu cứu từ đảo Pattle

03 giờ 15 phút chiều chủ nhật 10/6/1956, giờ Wagshinton D.C., trợ lý phụ tá ngoại trưởng đặc trách Viễn Đông - Howard P.Jones - đang nghỉ ngơi với gia đình, một cú điện thoại của trực ban Bộ ngoại giao báo tin có một bức điện khẩn cấp từ tòa đại sứ Mỹ tại Saigòn . Bức điện số 4798 đó báo cáo việc Bộ ngoại giao Saigòn mới chuyển qua một bức điện của trạm khí tượng của họ đặt trên đảo Pattle (tên tiếng Việt là đảo Hoàng Sa) trong quần đảo Paracels (Hoàng Sa). Bức điện vỏn vẹn mấy chữ:”Quân Trung Cộng đổ bộ lên đảo Robert (đảo Hữu Nhật). Sinh mạng tất cả chúng tôi bị đe dọa.Xin được di tản ngay”.


Trợ lý phụ tá ngoại trưởng Jones vô ngay văn phòng, liên lạc với phụ tá ngoại trưởng Hoover, và được lênh đến ngay nhà ông này. Một cuộc họp cấp tốc diễn ra vơi Paul Kattenburg của Vụ Đông Nam Á và McAuliffe, trực ban của Bộ, xoay quanh các chi tiết và bối cảnh tình hình. Phụ Tá ngoại trưởng Hoover cho biết rằng đô đốc Burke, tư lệnh hành quân của Hải quân vừa mới ra lênh cho máy bay của hạm đội 7 bay thám thính khu vực nói trên.
Sau cuộc họp bỏ túi này, tất cả cùng đến nhà Ngoại trưởng Dulles họp. Cố vấn pháp lý Phleger và cố vấn chính trị MacArthur được triệu tập. Mac Arthur qua năm sau sẽ sang Nhật làm đại sứ. Thành phần tham dự cuộc họp đủ cao cấp để tin rằng những ý kiến nêu ra hay đề xuất trong cuộc họp này là rất nghiêm túc Ngoại trưởng Dulles cho rằng đây là một sự kiện tối quan trọng buộc Hoa Kỳ phải hành động ngay và hiệu quả. Theo ông, “đây là một chiến dịch thăm dò của Trung Cộng, có quan hệ sinh tử với vấn đề các đảo Kim Môn và Mã Tổ, mà Hoa Kỳ có lợi ích gắn chặt”. Ông chỉ thị cho các cộng sự viên cao cấp tiếp xúc thêm với các lãnh tụ quốc hội (1).

“KỶ NIỆM” KIM MÔN- MÃ TỔ


Điều gì khiến ngoại trưởng Dulles “gắn chặt” vụ Trung quốc đổ bộ lên đảo Hoàng Sa (Pattle) với vụ Kim Môn-Mã Tổ và lợi ích của Hoa kỳ? Năm 1956 ấy, Trung Hoa lục địa và Đài Loan mới vừa ra khỏi cuộc khủng hoảng quân sự Kim Môn và Mã Tổ lần thứ nhất kéo dài từ 11/9/ 1954 đến 1/1955. Hai hòn đảo “quái ác” của Đài Loan chỉ cách bờ biển Đại lục có tám hải lý, tức hoàn toàn trong tầm bắn của pháo binh. Chính sách của Mỹ với Đài Loan những năm 1950 ấy khác hẳn ngày nay. Thoạt đầu, ngày 5/1/1950, Tổng thống Harry Truman loan báo “Hoa kỳ sẽ không can thiệp vào vụ tranh chấp ở eo biển Đài Loan”, tức sẽ không can thiệp khi hai bên đụng độ. Song, chỉ 6 tháng sau, khi chiến tranh Triều Tiên đã bùng nổ hôm 25/6/1950, Tổng thống Truman bèn nói lại: "Trung lập hóa eo biển Đài Loan”, trong thực tế là để bảo vệ Đài Loan. Không chỉ nói suông, Truman đưa hạm đội 7 đến đây án ngữ che chắn cho Đài Loan. Trong mấy năm trời núp bóng hạm đội 7, Tưởng Giới Thạch tập trung được 58.000 quân trên đảo Kim Môn và 15.000 quân trên đảo Mã Tổ trong ý đồ sử dụng hai hòn đảo cận bờ này thành hai pháo đài, đầu cầu đổ bộ cho một mai tái chiếm lục địa. Ngày 17/8/1954, Thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố giải phóng Đài Loan. Hai ngày sau, Mỹ "cảnh cáo" “Chớ đụng đến Đài Loan”. Hai tuần sau, vào ngày 3/9/1954, Trung Hoa lục địa bắt đầu pháo kích Kim Môn. Đến tháng 11 thì sử dụng đến máy bay để thả bom. Vào thời đó, Trung Quốc đã có một lực lương không quân mạnh: trong chiến tranh Triều Tiên, có lúc đã huy động đến 1830 chiếc, trong đó có đến 1.000 chiến đấu cơ Mig-15 quần thảo ngày này qua ngày khác với các chiếc F-84 của Mỹ. Ngày 2/12, Mỹ và Đài Loan ký hiệp ước phòng thủ hỗ tương. Ngày 20/1/1955, quân đội Trung quóc chiếm hòn đảo nhỏ Yijiangshan sau khi loại khỏi vòng chiến toàn bộ 720 binh sĩ Đài Loan đòn trú ở đây. Ba ngày sau, quốc hội Mỹ thông qua “nghị quyết Đài Loan” cho phép tổng thống Mỹ sử dụng quân đội bảo vệ Đài Loan. Tháng 1 còn lại bẩy ngày, tháng 2 chóng vánh kết thúc, vừa vặn để Trung Quốc thôi pháo kích. Và đến ngày 1/5/1955, thì phía Trung Quốc đơn phương ngưng bắn (2). Mỹ phải vất vả bảo vệ phe Quốc Dân đảng Đài Loan trong cuộc xung đột Kim Môn- Mã Tử là do trong cái nhìn của Mỹ, đây sẽ là một đột phá khẩu vào “phòng tuyến chống cộng” kéo dài từ quần đảo Aleutians, Nhật Bản, Hàn quốc…xuống đến tận Úc, New Zealand (3) .
Vụ khủng hoảng trên giải thích tại sao ngoại trưởng Mỹ Dulles cho rằng việc Trung Quốc đổ bộ lên đảo Pattle (Hoàng Sa) có liên hệ sinh tử đến hai đảo này và lợi ích của Mỹ. Một khi đảo Pattle (Hoàng Sa) rơi vào tay Trung Quốc, pháo đài cực Nam của “Trung Hoa Cộng Sản” (Chicom) sẽ không còn là đảo Hải Nam, mà là Hoàng Sa.


HOÀNG SA, TRƯỜNG SA và HÒA ƯỚC SAN FRANCISCO 1951.


Trong cuộc họp khẩn chiều chủ nhật 10/6/1956 ấy, Ngoại trưởng Mỹ Dulles bảo các cộng sự của mình xem xét khả năng viện dẫn hiệp định kết thúc chiến tranh với Nhât Bản, theo đó Hoa Kỳ có quyền hạn và trách nhiệm kế thừa đối với tất cả các lãnh thổ của Nhật (chiếm đóng) trước đây (4) . Ông cũng chỉ thị các cộng sự của mình xem xét khả năng đơn phương ra tay hành động chiếu theo tinh thần điều 8 hiệp ước SEATO (Liên phòng Đông Nam Á, kiểu như NATO của Đông Nam Á).
Về vấn đề đầu tiên mà Ngoại trưởng Mỹ Dulles nêu, Mỹ kế thừa các lãnh thổ mà Nhật chiếm đóng trước kia, có thể thấy đây là một “thực tế hiển nhiên” như qua phần trả lời của Ngoại trưởng Úc Nigel Hubert Bowen cho câu hỏi của dân biểu Hạ viên Gough Whitlam (qua năm sau sẽ kế vị ngoại trưởng Bowen) trong phiên họp ngày 15/9/1971 (5):
-Dân biểu Whitlam: Nước nào giữ chủ quyền trên quần đảo Spratly (Trường Sa) và Paracels (Hoàng Sa) mà Nhật Bản từ bỏ mọi quyền lợi, chủ quyền cùng yêu sách trong hòa ước San Francisco ngày 8/9/ 1951?
-Ngoại trưởng Bowen: Câu trả lời cho ngài Dân biểu như sau:…Qua hòa ước 1951, Nhật Bản từ bỏ mọi quyền lợi, chủ quyền, yêu sách trên các quần đảo Spratly và Paracels cùng các lãnh thổ khác…Theo điều 3 hòa ước này, Nhật Bản đồng ý đặt các hòn đảo trên dưới sự quản lý của Mỹ.

Khẩn trương tiếp ứng


Trở lại với cuộc họp giải cứu đảo Pattle (Hoàng Sa). Có ý kiến nêu khả năng rủ Philippines tham gia hành động. Ngoại trưởng Dulles bác bỏ mọi đề xuất hãy tham khảo các chính phủ thuộc SEATO, do lẽ Hoa Kỳ phải ra tay nhanh và lãnh trách nhiệm ra tay. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp trên chỉ sau khi máy bay thám thính của hạm đội 7 xác nhận nguồn tin từ phía Saigòn và sau khi đã thăm dò đánh giá tính hiệu quả mọi khả năng đã nêu ra (6) . SEATO, tức Liên phòng Đông Nam Á, là một anh em sinh đôi với khối NATO, nhằm chung nhau phòng thủ giữa các nước Đông Nam Á. Điều 8 của hiệp ước Liên phòng Đông Nam Á mà ngoại trưởng Mỹ Dulles viện dẫn làm cơ sở cho một cuộc hành quân tái chiếm đảo Pattle ấn định khu vực phòng thủ như sau: "là khu vực Đông Nam Á nói chung, bao gồm toàn bộ lãnh thổ các nước này, và cả trên Thái bình dương ngoại trừ khu vực từ bắc vĩ tuyến 21o 30’ trở lên”. Với điều 8 này, Mỹ có nhiệm vụ phòng thủ khu vực chung nêu trên với các nước Đông Nam Á khác, thậm chí đơn phương ra tay. Kết thúc cuộc họp, Ngoại trưởng Dulles chỉ thị thảo ngay một công điện cho tòa đại sứ tại Saigòn yêu cầu luôn khẩn cấp cập nhật tình hình và thông báo rằng Hoa kỳ đang xem xét trục xuất bọn Cộng Sản (TQ) ra khỏi các hòn đảo ấy. Trợ lý phụ tá Jones Jones hoàn tất ngay bức điện mang mã số Deptel 4011, cụ thể như sau:
"Các cấp cao nhất của chính phủ đang xem xét khả năng tiến hành các chiến dịch quân sự nhằm quét sạch Cộng Sản ra khỏi khu vực, cả trên đảo Woody lẫn trên đảo Pattle và đảo Robert, nếu đảo này sau này cũng bị tấn công. Mọi quyết định tự hậu sẽ tùy thuộc nơi kết quả các thông tin thám thính của không lực hải quân đã được phép cất cánh từ sáng sớm ngày 11/6” (giờ Saigon).

ĐÀI LOAN VÀ SÀIGÒN PHỐI HƠP TÁI CHIÉM HOÀNG SA?

Ngày hôm sau, thứ hai 11/6, bộ ngoại giao Mỹ gửi tiếp bức điện Deptel 4021 cho tòa đại sứ Mỹ tại Saigòn và tại Đài Loan, cho biết chi tiết hơn về “hai khả năng hành động khả dĩ đang được Washington xem xét trong mục đích tống khứ quân Cộng Sản Trung Hoa khỏi Hoàng Sa” như sau :

"1. Các lực lượng khả dụng của Mỹ trong khu vực sẽ đơn phương hành động buộc Cộng Sản Trung Hoa rút lui sau khi đã dành cho một thời gian cảnh cáo. Về mặt pháp lý, hiện chưa dứt khoát dựa trên điều 8 Hiến chương SEATO hay hiêp định (đầu hàng của) Nhật Bản.
2. Nỗ lực đạt đến môt thoả thuận giữa Trung Hoa Dân Quốc (cách gọi trước đây chỉ Đài Loan) và Saigòn về một hành động hỗn hợp của lực lượng của họ, lực lượng Hoa kỳ sẽ cung cấp tiếp liệu hậu cần khi cần thiết. Trong trường hợp thỏa thuận trên đạt được, hãy đảm bảo sẽ không nảy sinh vấn đề pháp lý nào.
Các tòa đại sứ Mỹ liên quan được yêu cầu đưa ra nhận xét về hai phương án trên, trong tinh thần là “khảo sát thái độ của các chính phủ liên hệ (tức Đài Loan và Saigòn) cùng các chính phủ khác ở châu Á, về tác động của việc sử dụng binh sĩ Mỹ thay vì binh sĩ châu Á, và về khả năng giải quyết vấn đề chủ quyền qua một thỏa hiệp dung hòa giữa Trung hoa Dân quốc (tức Đài Loan) và Việt Nam Cộng hòa”.
Đáp ứng yêu cầu của Bộ ngoại giao Saigòn, hạm đội 7 phái ngay hai tuần dương hạm và một số máy bay thám thính đến khu vực Hoàng Sa. Quân lực Mỹ đã thực hiện các cuộc thám thính trên biển, trên không và cả trên bộ ở đảo Robert trong hai ngày 12/6 và 13/6. Trong bức điện sau đó gửi CINCPAC, tổng tư lệnh quân lực Mỹ tại Thai bình dương, phó đô đốc Ingersoll, tư lệnh hạm đội 7 kiêm tư lệnh bộ chỉ huy lực lượng Mỹ phòng vệ Đài Loan, loan báo các kết quả thám thính: "Thay đổi duy nhất ở Hoàng Sa trong mấy tháng qua chỉ là việc Trung Hoa Cộng Sản tăng nhân sự trên đảo Woody (đảo Phú Lâm)(7). Hoạt động hầu như chỉ là thu gom phân chim. Không thấy binh sĩ hay vũ khí”. Phó đô đốc Ingersoll kết luận: "Trong những điều kiện trên, hiện chưa đến lúc Mỹ phải quét sạch bọn Cộng Sản ra khỏi đảo Phú Lâm…Một nỗ lưc chung giữa Đài Loan và (Nam) Việt Nam cũng không tiện…”.
Bức điện này được sao gửi cho các tòa đại sứ Mỹ trong khu vực để cùng bàn bạc. Đại sứ Mỹ tại Đài Loan Rankin, trong bức điện số 1122, cho biết ông nhất trí vơi các kết luận của đô đốc Ingersoll. Ông cũng lưu ý thêm rằng nếu khuyến khích Đài Loan đơn thân ra tay dọn dẹp khu vực Hoàng Sa, điều đó sẽ có tác đông còn lớn hơn là Mỹ ra tuyên cáo sẽ chống lại sự bành trướng của Cộng Sản Đỏ ở khu vực này.

Về phần mình, đại sứ Mỹ tại Saigòn Reinhardt cũng đánh đi bức điện số 4897 nhấn mạnh rằng hành động đơn phương của Trung hoa Dân quốc (tức Đài Loan) nhằm dẹp Trung hoa Cộng Sản trên đảo Woody (Phú Lâm) sẽ gây tổn thương quan hệ giữa Đài Loan và Sàigòn”.
Đề xuất liên kết Đài Laon và Saigòn dẫn đến đâu? Bức điện của ngoại trưởng Dulles trả lời:
“Đoạn 4. Vấn đề Hoàng Sa- Trường Sa (trên) đối với Bộ dường như minh họa cho việc thiếu các tiếp xúc thích ứng giữa hai chính phủ Đài Loan và Saigòn. Yêu cầu (các tòa đại sứ Mỹ) tại Saigòn và Đài Bắc thông báo với cac chính phủ liên quan trên rằng Mỹ xem việc Đài Loan và Saigòn tăng cường quan hệ cấp cao nhất là một tối ưu tiên của mình”. Ký tên Dulles. (8)

RƯỢU MAO ĐÀI 1972 VÀ HOÀNG SA 1974.

Năm 1956 là năm mà Trung Quốc còn bị Mỹ và “Thế giới Tự do”, trong đó có Đài Loan và Saigon, xem là “Trung Cộng”`cần phải chế ngự tuyệt đối. Thế cho nên, chỉ cần Saigòn “ho” là Mỹ đáp ứng ngay
Với thời gian, các chính phủ Mỹ có những thay đổi chính sách, từ chiến tranh Việt Nam đến quan hệ với Trung Quốc. Chuyến công du Trung Quốc đầu tiên của một Tổng thống Mỹ, Richard Nixon từ 21 đến 28/2/1972, với hình ảnh Nixon nâng chén rượu Mao Đài, đã là một bước ngoặc lịch sử. Gần hai năm sau, Hoàng Sa rơi vào tay Trung quốc, cho dù Saigòn có yêu cầu hạm đội 7 cứu viện. Còn Đài Loan, mà vào năm 1956 ấy còn là đồng minh của Mỹ cùng với Sàigòn, đã phải nhận nghị quyết 2758 ngày 25/10/1971, theo đó CHND Trung Hoa mới là đại diện chính thức tại Lien hiệp quốc, để khăn gói rời khỏi đây, như là một trong những điều kiên tiên quyết cho chuyến công du Trung Quốc của Nixon, dưới sự dàn xếp của Cố vấn Kissinger.
Câu chuyện, mà trợ lý phụ tá ngoại trưởng đặc tránh Viễn Đông Howard P.Jones tường thuật lại trong các bao cáo của mình tháng 6/1956 nêu trên, là một bằng cớ của mọt giai đoạn mà Hoàng Sa còn do chính quyền Sàigòn trấn giữ, hạm đội 7 bảo vệ, và người Trung Quốc mới chỉ thấp thoáng như những kẻ trộm đêm…Các ‘tác giả” của “đường lưỡi bò” còn chưa hoặc mới chào đời.

THIÊN TRIỀU.

---------------------------
1./ Department of State, Central Files, 790.022/6–1056. Top Secret. (Foreign Relations of the United States, 1955–1957 - Volume III, China, Document 186.)
2./ The First Taiwan Straits Crisis
3./ The Taiwan Strait Crisis of 1954-55 – by HI MATSUMOTO -2010
4./Memorandum for the Files, by the Deputy Assistant Secretary of State for Far Eastern Economic Affairs (Jones) [Washington ,] June 10, 1956.
5./ ANSWERS TO QUESTIONS UPON NOTICE - Former Japanese Islands: Sovereignty (Question No. 3670) - House of Representatives Hansard - 15 September 1971.
6./ Source: Department of State, Central Files, 790.022/6–1056. Top Secret.
7./ TQ chiếm đảo Phú Lâm , vào cuối tháng 12/1955, đầu tháng 12/1956.

8./ Foreign Relations of the United States, 1955–1957 Volume III, China, Document 187

18 tháng 11, 2010

Điểm lại “Hội thảo Biển Đông” với tướng hồi hưu Pháp - Daniel Schaeffer.


Trong số các nhà nghiên cứu tham dự Hội thảo, có ông Daniel Schaeffer, nguyên tuỳ viên quân sự Pháp tại Thái Lan, Việt Nam và Trung quốc. nay thuộc Trung tâm nghiên cứu châu Á 21 cùa Pháp.

THIÊN TRIỀU- Tôi muốn nêu lại với ông câu hỏi đã đặt ra cho GS Trung quốc Su Hao. Những hội thảo như thế này là để làm gì? Tranh luận giữa các học giả? Gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách? Giải thích vấn đề, làm rõ lập trường cho công chúng? Làm cho bớt hiểu lầm và thêm hiểu biết lẫn nhau?


-Daniel Schaeffer: Tôi nghĩ rằng vì cả bốn mục đích đó. Song cơ bản vẫn là những trao đổi trong hội thảo sẽ là cơ sở làm việc cho các nhà hoạch định chính sách các nước, hoặc trong ASEAN hay các tổ chức khác, cho phép họ có thể có cả những ý kiến mới. Điều quan trọng khác là để thế giới biết có những vấn đề trên vùng Biển này và những vấn đề đó là gì, từ đó mới có thể đi đến một sự phân chia công bằng các tài nguyên.

THIÊN TRIỀU: Số khách mời tham dự có là cân bằng hay không? Không quá thiên vị điều này, không quá chống điều kia? Do lẽ, có một hội nghị sau đó có ý kiến cho rằng đó là một cuộc “phục kích”…


-Daniel Schaeffer:Tôi nhận thấy rằng các nhà tổ chức hội thảo đã mời khách tham dự một cách rất cân bằng. Tôi cũng nói thêm rằng VN đã không mượn hội thảo này để đưa tối đa số tham luận viên của mình lên diễn đàn. Có những ý kiến của phe này hay phe kia, điều đó là bình thường. Song phải nhìn nhận là có nhiều ý kiến không đồng tình với một bên này hơn là bên kia.


THIÊN TRIỀU: Tại sao thế?

-Daniel Schaeffer: Bởi vì TQ đang bắt đầu làm cho thiên hạ lo âu khi nhất định quả quyết rằng Biển Đông là của họ. Ngay cả khi TQ đề nghị hợp tác kinh tế, tức là đã có một ý muốn hoà bình rồi đấy, thì đó vẫn là trong sách lược “vận dụng những mâu thuẫn” của họ, giống như vận dụng hai mặt âm/dương. Một mặt là lá bài hoà bình, mặt kia là lá bài đe doạ. Cần phải nhớ rằng không thể nào sửa đổi luật Biển của LHQ để cho Biển Đông trở thành của họ.

THIÊN TRIỀU: Trong bài tham luận của ông, ông có nhắc rằng Địa Trung Hải đã luôn là Địa Trung Hải, không ai đòi biến thành của riêng…


-Daniel Schaeffer: Trừ Mussolini trong thế chiến thứ nhì muốn biến thành biển riêng của nước Ý.


-THIÊN TRIỀU: Trở về với cách đây hơn 2000 năm khi người La Mã gọi Địa Trung Hải là “mare nostrum” (Biển của ta). Liệu xu hướng “biển của ta” này có lâu lâu lại quay trở lại hay không?


-Daniel Schaeffer: Trừ phi có mục đích là chế ngự tất cả, là bảo vệ một cách cực độ các yêu sách của mình. Đang có xu hướng muốn tạo thành những “ngoại lệ” cho Biển Đông, như bào rằng “đường lưỡi bò là không thể tranh cãi” . Nếu điều đó xảy ra, Công ước về luật biển của LHQ sẽ không còn ý nghĩa, vì như thế sẽ là tiền lệ cho những ngoại lệ khác ở khắp nơi.

THIÊN TRIỀU: Trong hội thảo, ông có đưa ý kiến rằng mỗi bên, VN và TQ hãy đưa ra mọi bằng cớ lịch sử, pháp lý…ra so với nhau một lần cho xong.


-Daniel Schaeffer: Về mặt lịch sử, vẫn chưa có gì là chung cuộc cả do lẽ vẫn chưa có một nghiên cứu nghiêm túc, đào sâu nào, các tài liệu đưa ra cho thấy ai đã là những người đầu tiên có mặt trên quần đảo Hoàng Sa. Vấn đề Trường Sa cũng thế. Thành ra, một khi tập hợp tài liệu lại được, cho một uỷ ban chuyên môn nghiên cứu, TQ, VN và cả Pháp. Do lẽ người Pháp đã từng đô hộ ở đây…từ tay triều đình An Nam, mới có thể đem ra mà so.
Trước đây, khi VN thương thuyết với TQ về biên giới trên đất liền, VN có hỏi xin Pháp các bản đồ thời thuộc địa. Pháp đã cung cấp cho cả VN lẫn TQ. Nhắc lại như thế để cho thấy rằng chúng tôi rất sòng phẳng, công bằng. Chừng nào mà chưa có một nghiên cứu như thế, cái gọi là “đường 9 đoạn’ hoàn toàn không có chút giá trị gì. Phải là những chứng cứ được công pháp quốc tế thừa nhận. Dẫu sao cũng có một luật được chấp nhận từ sau khi chế độ thực dân kết thúc, đó là qui tắc “uti possedetis” tức là các đường biên giới, sau khi độc lập, sẽ vẫn là như được vạch ra trước đó từ chế độ thực dân.

-THIÊN TRIỀU: Trong hội thảo, có ý kiến cho rằng ở TQ đang có một nhóm thế lực nào đó nắm công việc. Ông nghĩ như thề nào?


-Daniel Schaeffer. Trong mọi chế độ, luôn có những người phát biểu trong những thái cực. Từ cực hữu đến đối lập cực kỳ. Ngay cả trong các phong trào nhân văn cũng có những tiếng nói cực đoan. TQ cũng thế. Từ khi TQ trở thành một thế lực, xuất hiện những ý kiến cực đoan. Tôi nghĩ mỗi quốc gia đều có quyền tồn tại, và các láng giềng cần phải chấp nhận điều đó.


THIÊN TRIỀU: Trong hội thảo, một giáo sư TQ đã hùng hồn giới thiệu thái đô đấy trách nhiệm của chính phủ TQ trong vấn đề Biển Đông. Bản thân ông hiểu thông điệp ấy ra sao?


-Daniel Schaeffer: Tôi có nghe ông ấy phát biểu. Cũng như các đồng nghiệp khác của ông ấy. Việc họ luận thuyết cho chính phủ của họ là bình thường. Phải suy nghĩ về vấn đề này dựa trên nền tảng văn hoá của họ. Lý thuyết âm/dương, tận dụng các mặt mâu thuẫn. Đừng xem cuộc tập trận ba ngày sau phát biểu ôn hoà của ông Ôn Gia Bảo là mâu thuẫn với nhau mà đó là hai mặt bổ sung. Hãy xem “kinh tế thị trường kiểu TQ ”. Tất cả các nhà kiunh tế học phương Tây đều không hiểu nổi điều đó, cho đó là mâu thuẫn, vì thị trường, TQ là TQ. Nhưng người TQ đã cho hai điều mâu thuẫn “kết hôn” được với nhau (marier les contrastes) và chinh phục thế giới với cuộc ‘hôn nhân” đó. Hãy xem Hồng Kong nay là TQ, song hai chế độ. Đó chính là “kết hôn hai mâu thuẫn” với nhau…


THIÊN TRIỀU: Với những người quen tinh thần duy lý, thì đó là sự phi lý. Tôi quen gọi đó là tính hữu lý từ sự phi lý (la logique de l’illogique).


Daniel Schaeffer: Phải hiểu văn hoá về sự kết hợp các mâu thuẫn của họ mới hiểu được họ.


THIÊN TRIỀU

17 tháng 11, 2010

ĐIỂM LẠI "HỘI THẢO BIỂN ĐÔNG” VỚI GS SU HAO (TRUNG QUỐC)

Sáng thứ bảy 13/11, THIÊN TRIỀU đã gặp riêng môt diễn giả khá nổi bật trong Hội thảo khoa học về Biển Đông là Giáo sư Su Hao (Trung Quốc) để điểm lại ý nghĩa và kết quả của cuộc hội thảo lần thứ nhì về Biển Đông tổ chức ở Việt Nam. Có phải VN mượn hội thảo này để đả kích Trung Quốc?

-THIÊN TRIỀU: Thưa giáo sư Su Hao, Hội thảo về Biển Đông này là một dịp cho các nhà nghiên cứu trao đổi ý kiến với nhau. Tôi nghĩ rằng các ý kiến đó cũng đến tai người khác nữa. Tỉ như những nhà hoạch định chính sách và cả công chúng để giúp hiểu vấn đề đúng hơn và hiểu biết nhau hơn.

-GS Su Hao: Ông nói đúng. Hội thảo này rất ý nghĩa. Biển Đông là một điểm nóng của khu vực, là một vấn đề cũ (lâu đời) của khu vực, không chỉ giữa Trung quốc và Việt Nam. Đã có những diễn đàn chính thức khác như Diễn đàn ARF, Diễn đàn hợp tác an ninh, Diễn đàn Đông Á, các diễn đàn ngọai giao “kênh 2” (2nd track Diplomacy, còn gọi là “ngoại giao công dân”, THIÊN TRIỀU) tổ chức từ lâu ở Malaysia, Indonesia…Các bàn tròn an ninh khu vực khác. Hội thảo này do nuớc ông tổ chức là một mặt bằng mới để các học giả trao đổi ý kiến. Đây không phải là “kênh 2 ngoại giao”, cũng không phải chỉ gồm những nước liên quan đến vấn đề Biển Đông, mà là một mặt bằng đối thọai khác, rộng rãi hơn với những nước khác…

MỘT HỘI THẢO HỮU ÍCH CHO CÁC HỌC GIẢ TRUNG QUỐC.

-THIÊN TRIỀU: Một diễn đàn có qui mô thế giới…

GS Su Hao: Đúng thế. Có cả đại diện những nước khác nữa chứ không chỉ những nước chung quanh Biển Đông hay quanh châu Á - Thái bình duơng TQ quan tâm đến hội thảo này và do đó chúng tôi có mặt ở đây. Tôi cũng muốn nói rằng Biển Đông từ một hai năm nay trở thành một vấn đề khu vực nóng; nên cần có cơ hội trao đổi cái nhìn giữa các nước. Các nhà nghiên cứu cần trao đổi ý kiến với nhau để hiểu biết lẫn nhau hơn, và từ sự hiểu biết lẫn nhau đó có thể xây dựng niềm tin với nhau. Tôi nghĩ rằng đây là một mặt bằng có chức năng làm tránh những hiểu lầm, giảm đi những cảm nhận sai.

Kế đến, do lẽ đây là một diễn đàn quốc tế, nên có những ý kiến khác từ phương Tây, Mỹ, châu Âu. Trong quá khứ đã có những ý kiến từ phưong Tây về cái gọi là “sự nổi lên của Trung Quốc”, về cái gọi là thách thức, đe dọa “lợi ích quốc gia” đối với Mỹ chẳng hạn... Một số sự việc trong Biển Đông đã trở thành những cái gọi là “bằng chứng” đối với một số học giả phương Tây để cho rằng “sự nổi lên của Trung Quốc là một thách thức”. Thành ra, tôi nghĩ rằng diễn đàn này chính là một cơ hội để các học giả Trung Quốc phát biểu, bày tỏ cho thế giới quan điểm của mình, chúng tôi hiểu đất nước chúng tôi như thế nào, để giúp thế giới bên ngòai nhận biết thế nào là Trung Quốc đích thực, thái độ của Trung Quốc như thế nào, Trung Quốc xử lý mọi việc ra sao, kể cả vấn đề Biển Đông ra sao. Đây là dịp để các học giả Trung Quốc cho xã hội bên ngoài hiểu rằng Trung Quốc có một thái độ rất trách nhiệm trong vấn đề Biển Đông.

-THIÊN TRIỀU: Đó chính là thông điệp mạnh mẽ của ông trong hội thảo: Chính phủ Trung Quốc có một thái độ rất trách nhiệm.

GS Su Hao: Đúng vậy. Chúng tôi biết rõ chính phủ chúng tôi nghĩ gì, làm gì, ứng xử giải quyết vấn đề với tất cả trách nhiêm của mình, chứ không như các ý kiến đổ tội chúng tôi của phưong Tây.Trong hội thảo này, các học giả Trung Quốc, qua các phát biểu của mình đã cho thấy Trung Quốc thực sự nghĩ gì, hành động ra sao, rằng Trung Quốc có khả năng có một thái độ rất trách nhiệm đối với khu vực, đối với Biển Đông. Chứ Trung Quốc không hề có thái độ bạo ngược, trái lại chỉ muốn giữ ổn định và hòa bình cả trong Thái Bình duơng lẫn trong Biển Đông. Đó chính là suy nghĩ đích thực của chúng tôi. Di sản (tinh thần) của chúng tôi là duy trì ổn định và hòa bình ở Biển Đông và Thái bình duơng. Chúng tôi không hề có ý định gọi là « sử dụng phương thức quân sự » để xử lý vấn đề. Thành ra, ở hội thảo này chúng tôi đã làm rõ những vấn đề đó. Phuơng Tây cứ cho rằng Trung Quốc có « lợi ích » trên Biển Đông, trong khi đó Trung Quốc đã không hề có tuyên bố gì gọi là « lợi ích (cốt lõi) như thế cả! Thành ra, chúng tôi muốn truyền thông đại chúng VN và quốc tế nhận thức đúng về cái gọi là “lợi ích” (cốt lõi) này.

-THIÊN TRIỀU: Ông có nghĩ rằng thông điệp của ông đã được nghe và hiểu rõ ở hội thảo này?

GS Su Hao:Họ hiểu chứ. Thành ra, Trung Quốc tham dự hội thảo này là rất tốt để cho phưong Tây và thế giới bên ngòai có thêm thông tin và cảm nhận đúng về một Trung Quốc thực sự. Điều đó thật là tốt!

AI ĐANG LÀM GÌ Ở BẮC KINH ?

-THIÊN TRIỀU : Có ý kiến tham luận cho rằng ở Trung Quốc hiện đang có những dị biệt trong giới lãnh đạo. Tỉ như giới quân sự nay có thế lực hơn, họ có những quan tâm riêng của họ, có những lợi ích riêng của họ, họ đang diễu võ giương oai. Câu hỏi đặt ra là: ở Trung Quốc, ai đang « nắm công việc »? Ông còn nhớ ý kiến của nhà tham luận đó chứ ?

-GS Su Hao: Của một nhà nghiên cứu phương Tây[1]. Họ nói như thế để nhấn mạnh rằng Trung Quốc đang xây dựng quân sự, để chỉ trích rằng Trung Quốc có một thái độ xâm luợc. Qua hội thảo này, các học giả chúng tôi cho thấy việc một cuờng quốc có những họat động quân sự là bình thuờng. Một hiện tượng rất bình thuờng. Trung Quốc đang hiện đại hóa, kể cả quân sự. Nước nào cũng thế, kể cả VN.

-THIÊN TRIỀU : Đúng thế, kể cả VN...

Nghe đến đây, Ren Yuanzhe ,một tiến sĩ, giảng viên đại học ngọai giao Trung Quốc, trợ lý của GS Su Hao vội ghi chép vào trong sổ tay.

-GS Su Hao lập lại: VN cũng thế phải không ? Đúng không ?

-THIÊN TRIỀU : Đúng vậy.

Ren Yuanzhe tiếp tục ghi chép trả lời của THIÊN TRIỀU.

-GS SU Hao : So với phát triển kinh tế của Trung Quốc, thì phát triển quân sự như thế là còn thấp, nên hiện đại hóa quân sự là bỉnh thuờng, rất bình thuờng thôi. Trung Quốc đang đối diện nhiều thách thức an ninh quốc gia. Như vấn đề Đài Loan. Đất nuớc Trung Quốc còn bị chia cắt, nhiệm vụ tái thống nhất vẫn còn đó. Đài Loan vẫn còn được trợ giúp từ bên ngoài, được Mỹ bán vũ khí. Mỹ bỏ qua một số cam kết vể vấn đề Đài Loan. Thành ra, Trung Quốc cần tăng cường khả năng quân sự.

THẾ NÀO LÀ HỮU NGHỊ ?

-THIÊN TRIỀU : Gần đây tôi đang viết một bài có liên quan đến hai sự kiện mà không biết kết luận ra sao. Sự kiện thứ nhất là hôm 29/10, Thủ tướng các ông, Ôn Gia Bảo, theo AFP tường thuật, đã tuyên bố Trung Quốc sẽ hòa bình hữu nghị trên Biển Đông với các nước.Ba ngày sau, hôm 2/11 Global Times, Xinhua net, loan tin Trung Quốc tập trận tấn công với 1800 lính thủy đánh bộ cùng 100 tàu chiến, tầu ngầm các lọai ở Biển Đông. Nhật báo Global Times các ông đăng lại phát biểu của một quan chức các ông cho rằng « tập trận đó là để cho thấy sức mạnh của lính thủy đánh bộ Trung Quốc », rằng « cuộc tập trận này là để cảnh cáo các nước nào muôn tập trận với nước khác ». Theo ông, cuộc tập trận đó chính xác nghĩa là gì ?

GS Su Hao : Ngày 2/11 à ? Tôi không biết tin này. Cho dù sao đi nữa, tôi cũng cho rằng đó là chuyện bình thuờng cả. Trước hết, môt cuờng quốc như Trung Quốc cần tập trận. Nước nào cũng thế,VN cũng thế phải không ? Kế đến, chúng tôi cần tập trận như thế để cho một số thế lực bên ngoài thấy sức lực của chúng tôi. Đây là liên quan đến an ninh quốc gia chúng tôi, đến eo biển Đài Loan.Tiếp nữa, năm nay, như ông biết, có nhiều vấn đề. Ở Đông Bắc Á chẳng hạn, Mỹ tập trận với đồng minh Nam Hàn, Nhật Bản.

THIÊN TRIỀU : Tôi muốn thu hút sự chú ý của ông đến một số chi tiết sau. Thứ nhất là vị trí của cuộc tập trận là trên Biển Đông gần Trường Sa. Thứ nhì là bản chất của cuộc tập trận. Đây là một cuộc tập đổ bộ tấn công chứ không phải tập phòng thủ. Tập trận cũng có dăm bẩy đường tập trận. Với 1800 lính thùy đánh bộ tập đổ bộ trên Biển Đông như thế, cuộc tập trận này chính là chuyện gây « hiểu lầm » đấy. Ông nói đến Mỹ, đến Nhật, nhưng láng giềng gần sát nhất cuộc tập trận đổ bộ này lại là Việt Nam!

GS Su Hao : Tôi nghĩ rằng, nếu quả thật là như thế, thì Trung Quốc cũng không muốn nhắm đến VN. VN không là mục tiêu của Trung Quốc. Hai nước chúng ta hữu nghị mà. Chúng tôi không nhắm VN như là một mục tiêu quân sự. Chúng tôi tập trận ở Nam Hải nhưng thật ra nhắm đến Biển Đông Bắc. Ở đó, tình hình không cân xứng. Mỹ và liên minh của họ rất mạnh...

THIÊN TRIỀU : GS Su Hao, tôi đọc rất nhiều bài xã luận của ông trên Global Times. Ông là nhà xã luận ôn hòa nhất.Tôi muốn nhờ ông giải thích giùm tôi bài báo này đăng trong mục « Diễn đàn » tờ Global Times ấy. Tựa đề bài báo là "Trung Quốc cần hủy họai nền kinh tế VN để tránh một cuộc chiến tranh thực sự” (China needs to destroy vietnam's economy to avoid real war). Bài này mới đăng hôm 8/10, cách đây không lâu, do Steven Guo biên tập. Bài này được trình bày rất đầy ý nghĩa với hai bức ảnh xe cộ như nêm ở Bắc Kinh tương phản với xe đạp ở Hà Nội.

GS Su Hao : Tờ báo này không phải là một tờ báo nghiêm túc. Họ thích câu khách.

THIÊN TRIỀU : Tôi vẫn tưởng đó là một tờ báo nghiêm túc vì ông, một học gỉa nghiêm túc, thường có bài trên đó. Ông có nghĩ rằng những bài báo như thế có ích gì cho điều gọi là tình hữu nghị hai nước ? Tôi có thể đoan chắc với ông rằng không thề thấy một bài báo nào như thế trên báo chí VN.

GS Su Hao : Đó là một tờ báo độc lập, họ muốn đăng gì thì đăng. Không cấm được.

THIÊN TRIỀU : Tôi ngạc nhiên khi hay biết ở Trung Quốc lại tự do báo chí đến thế. Nhờ ông nói lại với Global Times rằng những bài báo như thế không hữu nghị chút nào. Nói đến hữu nghị, ông có mở truyền hình trong phòng khách sạn của ông không? Ông đếm được bao nhiêu đài của Trung Quốc ?

GS Su Hao : Có kênh 4 (CCTV4).

THIÊN TRIỀU : Ông hãy đếm kỹ nữa đi, còn có ít nhất 4,5 đài nữa, Quảng Đông, Phượng Hoàng vân vân... Ông có biết chúng tôi có 64 tỉnh thành và mỗi tỉnh thành có ít nhất một đài truyền hình. Và đài nào cũng chiếu phim Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng không ở một nước nào khác trên thế giới này, lại có một môi trường hữu nghị với văn hóa Trung Quốc như ở VN. Thành ra, tôi nhắc lại, tôi không nghĩ rằng những bài báo như thế lại là có ích cho hai nước.

GS Su Hao : Tôi có thể giữ bài báo này ?

THIÊN TRIỀU : Xin mời ông. Tôi in ra để ông đọc vì quan tâm đến tình hữu nghị hai nước ấy mà.

-----------------------
[1] Leszek Buszynski của Đại học Quốc gia Úc. Xem “Hội thảo quốc tế về Biển Đông: Biển Đông trở thành vấn đề quốc tế”, TUỔI TRẺ Thứ Sáu, 12/11/2010.